Ngành mây tre chưa tiếp cận khoa học hiện đại
Thực trạng hiện nay là thiếu thiết kế mẫu cho nghề mây, tre đan xuất khẩu, chưa tiếp cận được với khoa học hiện đại, thiếu thông tin thị trường.
Bộ bàn ghế được chế xuất từ cây tre Việt Nam
Hiệp hội làng nghề Việt Nam và Cục Chế biến, thương mại nông lâm thủy sản & nghề muối (Bộ NN-PTNT) vừa tổ chức hội nghị khách hàng chuyên ngành mây tre VN năm 2014. Mục đích của hội nghị nhằm đẩy mạnh xúc tiến thương mại sản phẩm mây đan tre đến các thị trường tiềm năng như Nhật, EU, Mỹ…, cung cấp thông tin thương mại về thị trường đến các DN, tạo cơ hội giao lưu phát triển công nghệ, thiết bị chế biến tre công nghiệp giữa các DN trong và ngoài nước với nhau.
Hội nghị đưa ra phương hướng, các giải pháp, tạo ra những đóng góp cho sự phát triển nghề và làng nghề, giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn. Qua đó tăng cường sự giao lưu học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm, tìm kiếm giải pháp liên kết, nâng cao hiệu quả hoạt động, tạo ra nhiều sản phẩm mẫu mã mới, đóng góp cho chương trình XĐGN ở địa phương.
Hiện cả nước có khoảng 1,4 triệu ha tre; 30.000 ha mây và 350 DN, cơ sở chế biến các loại sản phẩm mới từ mây, tre. Các sản phẩm chế biến từ mây, tre vẫn chủ yếu là sản phẩm truyền thống.
Khảo sát của Cục Chế biến, thương mại nông lâm thủy sản & nghề muối cho biết kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm mây, tre, cói, thảm trong 3 năm gần đây ổn định ở mức 180 - 200 triệu USD.
Điều này cho thấy sản phẩm đang tham gia một cách khiêm tốn vào thị trường thế giới dù các sản phẩm chế biến từ mây, tre của VN đã có mặt ở rất nhiều nước trên thế giới.
Phát biểu tại hội nghị, nhiều nhà quản lý, khoa học, nghệ nhân làng nghề đều cho rằng, sự quan tâm, đầu tư đối với lĩnh vực mây, tre của chúng ta chưa thực sự có một chiến lược bài bản. Ông Vũ Huy Thiều, Hội đồng tư vấn Hiệp hội Làng nghề VN bày tỏ: "Chúng ta thiếu thiết kế mẫu cho nghề mây, tre đan xuất khẩu, chưa tiếp cận được với khoa học hiện đại, nghệ nhân còn thiếu thông tin thị trường”.
Cũng theo ông Thiều, gần với chúng ta là Trung Quốc, họ có một chiến lược phát triển tre 30 năm. Trong 10 năm đầu tập trung cho việc nghiên cứu, lựa chọn giống tre tốt để trồng. 10 năm tiếp theo là chăm sóc và mở rộng diện tích. 10 năm cuối là mời các nhà khoa học và nghệ nhân đến tại vườn tre để xem xét, nghiên cứu. Từ đó có kế hoạch cho việc khai thác, chế biến sản phẩm và nắm được xu thế của thị trường xuất khẩu.
Theo nongnghiep.vn