Cây Xoan Đào
Tên khoa học: Toona sinensis A.Juss M.Roem
Pygeum arboreum Endl. et Kurz
Họ: Xoan (Meliaceae) - Bộ:
Cam (Rutales)
Lớp (nhóm): Cây gỗ lớn
Tên Việt
Nam: Xoan Đào,
Tên địa phương: Xoan hôi, May
sao, Suấn xủ, Tông dù...
1. Giới thiệu cây Xoan Đào
Ở Việt
Nam, Xoan Đào sinh trưởng ở độ cao
từ 700 đến 1000m so với mặt nước biển. Phân bố rải rác ở các tỉnh vùng núi phía
Bắc như Lạng Sơn, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Quảng Ninh… và một số
khu vực khác của Tây Nguyên. Tại Kom Tum, Xoan Đào phát triển tốt ở một số
huyện như: Sa Thầy, Kon Rẫy, Kon Plong. Xoan Đào còn rất ít cá thể ở khu vực
rừng miền Đông Nam Bộ.
Xoan Đào là loài cây ưa sáng
hoàn toàn, qua khảo sát tại địa phương xã Hiếu, huyện Kon Plong tỉnh Kon Tum
cho thấy: Xoan Đào chỉ tái sinh ở những ô trống trong rừng, ven đường đi, đặc
biệt ở những nơi có các con đường mới mở xuyên rừng. Mật độ tái sinh của Xoan
Đào có những chỗ rất cao 5.000 đến 10.000cây/ha.
Việc theo dõi thu hái hạt để
gieo ươm gây trồng Xoan Đào tại địa phương chưa được thực hiện, vì thế giải
pháp trước mắt cho việc gây trồng loài cây này là bứng những cây con tái sinh
tự nhiên ở những nơi có mật độ cao để trồng rừng. Xoan Đào được trồng thuần với
mật độ 1.100 hoặc 1.600cây/ ha.
Xoan Đào sinh trưởng nhanh, tăng trưởng bình
quân năm đạt đường kính 2 - 2,5cm và đạt chiều cao 1,2 - 2m. Gỗ Xoan Đào được
dùng làm ván lạng, ván bóc và các đồ nội thất gia đình như cửa gỗ, bàn ghế, tủ
bếp… Đặc biệt hiện nay gỗ Xoan Đào được dùng làm ván lạng cho veneer rất phổ
biến, loại gỗ này đang rất được ưa chuộng trên thị trường. Chất liệu veneer Xoan
Đào đang trở thành xu hướng và sự lựa chọn của rất nhiều gia đình Việt. Lá
non và vỏ cây có thể dùng để chiết xuất tinh dầu.
Là loại gỗ có độ bền và độ ổn
định cao, thiết kế được nhiều kiểu dáng, mẫu mã hiện đại, sau khi đã được xử lý
kỹ thuật thì độ chịu ẩm và khả năng kháng mối mọt tốt hơn. Sản phẩm đồ gỗ mỹ
nghệ xuất khẩu Việt Nam năm 2012 đạt 3,8 tỷ USD - đứng thứ 6 thế giới, thứ 2
châu Á, thứ Nhất Đông Nam Á - trong đó các mặt hàng chế biến từ gỗ Xoan Đào khá
lớn.
Ngoài ra, Xoan Đào là loài cây
đem lại giá trị kinh tế cao khi được trồng phổ biến và thông dụng, dễ
sinh trưởng và thời gian có thể thu hoạch ngắn.
Sau chu kỳ từ 8 đến 10 năm (với
các tỉnh phía Bắc); 7 - 8 năm (với các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên), cây Xoan
Đào đã cho khai thác, với giá bán từ 5 - 5,5 triệu đồng/m3 (gỗ tròn)
đối với loại vanh dưới 80cm và trên 6 triệu đồng/m3 đối với loại
vanh từ 80cm trở lên. 12,5 - 13 triệu đồng/m3 gỗ xẻ hộp; 16,5 - 18
triệu/m3 gỗ xẻ thành phẩm.
Hiện tại, hầu hết gỗ Xoan Đào
trên thị trường Việt
Nam
được nhập khẩu từ Indonexia và Nam Phi.
Trong lĩnh vực nông lâm nghiệp
đang bị thiếu hụt trầm trọng nguyên liệu gỗ phục vụ xây dựng phát triển đô thị,
khu công nghiệp, dân dụng. Để giải quyết một phần khủng hoảng thiếu các loại gỗ
phục vụ nhu cầu xin giới thiệu các bạn chú ý tới một loại gỗ quen thuộc lâu nay
lãng quên trong các căn nhà của người dân đó là cây Xoan Đào. Xoan Đào rất
dễ trồng, lớn nhanh, gỗ tốt, giá lại gấp 10 lần keo và bạch đàn. Một cây Xoan
Đào 15 năm tuổi có đường kính 35 - 40 cm giá từ 3 - 3,5 triệu đồng. Một sào Xoan
Đào (1000m2) có thể trồng từ 150 - 200 cây. Thời gian thu hoạch tốt
nhất của cây Xoan Đào từ 6 - 8 năm tuổi.
Cũng giống như cây Lát xoan
(Lát hoa), Xoan Đào cũng thuộc họ xoan, nên có tính chịu hạn cao. Thích hợp với
vùng đất nghèo dinh dưỡng, khô hạn.
Lưu ý: Xoan Đào trồng trong
vườn sinh trưởng tốt không bị lợn, dê, cừu phá hoại bởi lá, vỏ, rễ Xoan Đào có
mùi hôi, vị đắng, mùi vị hôi hắc gây dị ứng tránh được súc vật ăn lá phá hoại
cây trồng.
2. Giống.
Lát xoan (Lát hoa), Xoan Đào,
Xoan ta, Xoan mộc… cùng họ (chi) nên kỹ thuật gieo ươm tương đồng. Vì vậy có
thể vận dụng kỹ thuật thích ứng như nhau. Chúng tôi sưu tầm, lược trích và giới
thiệu kỹ thuật ươm giống để quý bạn vận dụng cho phù hợp.
2.1. Kỹ thuật thu hái. (Theo cây giống lâm nghiệp)
- Cây trồng 8 - 9 năm bắt đầu
ra quả, nhưng thu hái ở các lâm phần từ 10 tuổi trở lên mới có chất lượng hạt
tốt.
Chu kỳ sai quả: 2 - 3 năm, ở những năm
này tỷ lệ cây ra quả đạt 80 - 90%.
- Thời gian thu hái: từ 25 /1
đến 15/02.
- Chỉ thị độ chín: Khi quả chín
vỏ mầu nâu nhạt, một số quả nứt để hạt bay ra bên ngoài. Hạt và cánh hạt mầu
cánh gián, nhân hạt chắc và có mầu trắng.
- Thời gian thu hái tốt nhất là
vào lúc lâm phần có từ 5 - 10% số cây có quả nứt, phải thu sớm trước khi hạt
phát tán.
2.2. Chế biến.
- Quả khi thu hái, hạt chưa
tách. Hạt chỉ tách khi quả chín hoàn toàn.
- Quả thu hái về phải ủ quả 2
đến 3 ngày sau khi phân loại.
- Đống ủ không cao quá 50cm và
phải để nơi thông gió. Mỗi ngày đảo 1 lần.
- Khi quả chín có hiện tượng tự
tách hạt, ta đem trải đều phơi dưới nắng để tách hạt. Hạt được phơi 2 - 3 nắng,
khi hạt đã khô sàng sảy có thể đem gieo ngay hoặc đem bảo quản.
2.3. Bảo quản hạt giống.
Trong điều kiện thông thường:
- Hạt sau khi phơi khô giữ ở độ
ẩm 10 - 15% đem cất trong chum lọ có nút đậy kín để nơi thoáng mát.
- Kiểu bảo quản này có thể duy
trì sức sống được 1 thời gian nhưng tỷ lệ nảy mầm giảm tương đối nhanh. Sau 3
tháng đã mất sức nảy mầm 35 - 50%.
Một số thông số cơ bản:
- Tỷ lệ chế biến:
20kg quả tươi/1kg hạt khô.
- Số lượng hạt/1kg: 55.000 - 60.000 hạt.
- Độ thuần:
trên 90%.
- Tỷ lệ nảy mầm:
trên 70%.
Theo
kinh nghiệm:
- Hạt có mầu cánh dán nhạt: Hạt
kém phẩm chất (hạt thu hái chưa chín). Tỷ lệ nảy mầm thường đạt 25 - 30%.
- Hạt có mầu cánh dán trong:
hạng tốt nhất, tỷ lệ nảy mầm trên 80%.
- Hạt có mầu cánh dán sẫm: Chất
lượng kém (hạt cuối vụ, hạt của vụ trước pha lẫn hạt cũ có sự biến mầu). Tỷ lệ
nảy mầm 30 - 40%.
3. Tạo bầu.
3.1.Vỏ bầu.
- Loại vỏ bầu PE mầu trắng đục
hoặc đen, bảo đảm độ bền để khi đóng bầu hoặc qúa trình chăm sóc cây trong vườn
cũng như khi vận chuyển cây không bị hư hỏng.
- Kích thước bầu: 8x12cm. Bầu
không đáy và đục lỗ xung quanh. Không dùng bầu có đáy hoặc cắt góc đáy.
3.2.Thành phần hỗn hợp
ruột bầu.
- Phân chuồng ủ hoai: 10%.
- Supe lân Lâm thao:
2%.
- Đất tầng A dưới tán rừng:
88%.
- Đất có hàm lượng mùn từ 3% và
độ pH: 5 - 6.
Yêu cầu phân chuồng:
- Phân phải qua ủ hoai
- Phân khô.
Yêu cầu phân Lân:
- Phân Supe Lâm Thao
- Hàm lượng P2O5 dễ tiêu đạt tỷ
lệ 14%
Yêu cầu đất rừng tầng A:
- Có hàm lượng mùn 3%
- Độ pH(KCL): 5.0 - 6.0
- Thành phần cơ giới: thịt nhẹ,
pha cát (sét vật lí 20-25%)
Trường hợp khan hiếm đất rừng
có thể thay thế bằng đất dưới tán cây tế guột hoặc cây cỏ lào.
Tuyệt đối không được gieo
"Chay”, không có phân chuồng hoặc dùng đất tầng B sau đó bón thúc phân vô cơ
(đạm lá).
3.3. Kỹ thuật pha trộn
đất ruột bầu.
- Đất tập kết tại vườn ươm,
được đập nhỏ và sàng có đường kính mắt sàng 4mm, loại bỏ rễ cây, sỏi đá, đất
sét, rồi vun thành đống cao 15 - 20cm. Sau đó phun ẩm và dùng vải mưa,
giấy bóng ủ 4 - 5 ngày ngoài nắng.
- Phân chuồng qua ủ hoai
và phân Lân, nếu vón cục cũng phải đập nhỏ và sàng.
- Các thành phần kể trên được
định lượng (đong bằng thúng, sảo…) theo tỷ lệ đã quy định và trộn đều trước khi
đóng bầu.
- Để có độ kết dính khi đóng
bầu, đất được tưới nước ẩm, nhưng tránh quá ướt kết vón.
3.4. Tạo luống, xếp bầu
và kỹ thuật đảo bầu.
- Trang mặt luống cho phẳng,
đất nhỏ mịn, sạch cỏ.
- Luống để xếp bầu có quy cách:
Chiều rộng 1m, chiều dài 10 - 20m và cao 15 - 20cm. Rãnh luống: 40 - 50cm.
- Xếp bầu theo hàng, cứ 2 hàng
để cách 1 hàng. Mật độ bầu trên luống khoảng 260 - 280 bầu/m2.
- Từ tháng thứ 3 - 4 phải tiến
hành thăm bầu. Mỗi khi rễ cọc phát triển ra ngoài đáy bầu phải tiến hành đảo
bầu kết hợp phân loại cây để tiện chăm sóc. Chỉ tiến hành đảo bầu vào những
ngày dâm mát hoặc có mưa nhỏ.
4. Xử lí hạt giống.
- Diệt khuẩn bằng cách ngâm hạt
trong dung dịch thuốc tím KMnO4 nồng độ 0,1% (1gam thuốc tím pha cho 1 lít
nước) thời gian ngâm: 30 phút.
- Vớt ra tiếp tục ngâm trong
nước ấm 30 - 35oC trong 5 - 6 giờ.
- Hạt được ủ trong túi vải bông
để nơi khô ráo ấm áp, khoảng 2kg/túi và cất giữ nơi khô ráo.
- Hàng ngày tiến hành ủ chua
bằng nước lã sạch, ấm 30oC cho đến khi hạt nứt nanh đem gieo (Tránh để
nanh quá dài khi gieo có thể bị gẫy mầm).
5. Thời vụ gieo.
Ngay khi thu hái xử lý hạt đã
xong.
6. Gieo hạt và cấy cây.
+ Có thể gieo hạt thẳng vào
bầu.
- Tạo 1 lỗ sâu 0,5cm giữa bầu
và gieo 1 - 2 hạt nứt nanh, sau đó phủ lớp đất mỏng từ 3 - 5mm.
- Dùng rơm rạ phủ trên mặt
luống giữ độ ẩm, tránh nắng.
+ Có thể gieo theo hàng hoặc
gieo vãi. Số hạt gieo: 1kg/30 - 40m2.
- Sau khi gieo tiến hành phủ
hạt. Lớp đất phủ không quá 4mm, sau đó phủ rơm rạ trên mặt luống. Rơm rạ để phủ
cần được khử trùng. Sau khi gieo tiến hành tưới nước đủ ẩm.
- Dùng cây mầm có chiều dài 2 -
2,5cm, khi cây được 15 - 20 ngày tuổi. Hạt cây mầm là thời kì cây mầm chóng bén
rễ có tỷ lệ sống cao nhất.
- Chỉ tiến hành cấy cây khi
trời râm mát hoặc mưa nhẹ, tránh những ngày nắng gắt, gió mùa Đông Bắc. Trước
hôm cấy cần tưới đất ướt đều.
- Cây cấy sau khi nhổ cần
nhúng luôn vào bát nước để tránh khô rễ mầm. Cấy đến đâu nhổ đến đấy. Loại bỏ
những cây xấu. Dùng que nhọn chọc 1 lỗ sâu 1- 2 cm ở giữa bầu, hướng cây mầm
sao cho cổ rễ ngang mặt bầu và dùng que ép chặt đất rễ mầm. Trường hợp rễ cây
mầm quá dài có thể cắt bớt, nhưng tránh gây dập nát.
- Sau khi cấy xong tiến hành
cắm ràng ràng che mặt luống và tưới nước cho cây. 1 kg ràng ràng có thể cắm che
được 1m2. (Che phủ 80 - 90% mặt luống).
Nên gieo ươm trong nhà lưới
hoặc gieo ươm trên luống có che bằng lưới cản quang là tốt nhất.
7. Chăm sóc và phòng trừ
sâu bệnh.
7.1.Chăm sóc cây con.
Tưới nước.
- Tưới nước giữ độ ẩm đất
sau khi gieo hoặc cấy cây nếu trời không mưa. Không được để khô luống.
- Khi thấy hạt mọc mầm gai dứa
dỡ bỏ rơm rạ phủ mặt luống và cắm ràng ràng che bóng. Từ thời gian hạt chưa bỏ
mũ thường xuyên tưới mỗi ngày ít nhất 1 lần vào buổi sáng sớm hoặc buổi
chiều. Tưới liên tục trong 20 ngày đầu, sau đó chỉ tưới khi đất khô.
- ở giai đoạn sau, tuỳ theo
tình hình thời tiết mà ở giai đoạn sau điều tiết lịch tưới cho phù hợp:
cách 10 - 15 ngày tưới 1 lần.
- Trước khi xuất vườn 1 - 2
tháng tuyệt đối không được bón thúc, hạn chế tưới nước hãm cây.
Cấy dặm:
Sau khi cấy cây 5 - 10 ngày,
cây nào chết cần tiến hành cấy dặm ngay.
Nhổ cỏ phá váng:
- Luôn làm cỏ sạch trên mặt
luống. Thời gian đầu cứ sau 10 - 15 ngày cần làm cỏ, kết hợp phá váng 1 lần.
- Dùng que vót nhọn xới nhẹ phá
lớp váng tạo trên mặt bầu, tránh không làm hư tổn đến bộ rễ.
Che bóng:
- Xoan Đào là cây ưa sáng,
nhưng khi còn nhỏ chịu bóng nhẹ và phát triển nhanh.
- Giai đoạn đầu cần có độ che
bóng 30%, sau đó dỡ bỏ dần giàn che.
- Trước khi xuất vườn 1-2 tháng
cần dỡ bỏ hoàn toàn.
Bón thúc.
- Có thể bón thúc bổ trợ để
thúc đẩy sinh trưởng của cây con trường hợp cây sinh trưởng kém ở các thời điểm
cây 120 ngày, 180 ngày, 240 ngày. Sau 15 - 20 ngày thúc 1 lần.
- Dùng loại phân hỗn hợp Đạm
Amôn - Supe lân và Cloruakali tưới thúc với tỷ lệ 3N:6P:1K. Hoặc dùng phân Supe
Lân Lâm thao khi cây có biểu hiện tím lá. 2kg bón cho 1000 bầu chia làm 6 lần
(Mỗi lần bón 0,340kg/1000bầu).
- Hoà phân với nồng độ 0,5%
(1kg phân/200 lít nước). Tưới dung dịch nước phân bằng bình hương sen. Sau khi
tưới phân phải tưới rửa bằng nước lã.
- Không tưới thúc vào những
ngày nắng gắt, vào lúc buổi trưa nắng. Tốt nhất nên bón vào những ngày râm mát
hoặc mưa phùn.
7.2. Phòng trừ sâu bệnh.
- Nhìn chung cây Xoan Đào trong
giai đoạn vườn ươm ít nấm bệnh. Thường có 2 loại sâu hại: Sâu đục nõn và sâu ăn
lá cả ở vườn ươm và ngoài rừng trồng.
- Cách phòng trự hữu hiệu nhất
là thường xuyên kiểm tra và bắt sâu vào buổi sáng. Ngoài ra còn có thể dùng hoá
chất thông thường.
8. Tiêu chuẩn cây xuất
vườn.
- Tuổi cây: 6 - 7 tháng tuổi
(nếu chăm sóc tốt).
- Đường kính cổ rễ: 0,5 - 0,6
cm.
- Chiều cao: 50 - 60 cm.
- Cây đã hoá gỗ hoàn toàn.
- Cây không bị nhiễm sâu bệnh.
- Cây không bị cụt ngọn, không
nhiều thân.
- Không trồng cây khi đã có lá
non.